2 thg 8, 2011

Hoàng Sa, Trường Sa trong bản đồ cổ nước ngoài

 Trong nhiều tài liệu của các tu sĩ đến truyền giáo hoặc có đi qua lãnh thổ Việt Nam còn lưu lại đều khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.
Bài 1: Chủ quyền qua tài liệu tôn giáo
 
1. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes đã xuất bản tại Roma nhiều sách bằng chữ quốc ngữ như Từ điển Việt - Bồ - La (1651), Giáo lý Giảng tám ngày (1651). Đặc biệt trong sách Regnũ Annam (1650, Vương quốc An Nam) đi kèm theo tấm bản đồ nước ta đầu tiên chú thích rõ ràng bằng chữ quốc ngữ.
 
Chúng tôi phỏng đoán Alexandre de Rhodes vẽ bản đồ này theo mẫu An Nam quốc đồ (1490) thời Hồng Đức, vì để phía tây lên trên và đại cương nét biển, sông, núi cũng tương tự. Ở ngoài khơi Quảng Ngãi bản đồ Hồng Đức ghi rõ chữ Đại Hải (bằng Hán tự) còn bản đồ Đắc Lộ ghi thêm cù lao Ré (tức đảo Lý Sơn) và xa ngoài khơi là đảo Pulo Sisi ở đúng địa điểm Hoàng Sa. Như vậy Việt Nam đã làm chủ quần đảo Hoàng Sa ít nhất là từ cuối thế kỷ XVI rồi.
 
An Nam đại quốc họa đồ của Giám mục Taberd ghi rõ bằng chữ quốc ngữ và âm tiếng ta: Paracel seu Cát Vàng (đảo Paracel hay Cát Vàng).
 
2. Hòa thượng Thích Đại Sán (1633-1704) là nhà sư Trung Hoa được chúa Minh - Nguyễn Phước Chu (1691-1725) mời sang Đàng Trong thuyết pháp về đạo Phật trong hai năm 1694-1695. Khi về nước, hòa thượng đã viết sách Hải ngoại ký sự, trong đó nói đến biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa: “Bãi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể gọi là Vạn Lý Trường Sa… Quảng ấy cách Đại Việt bảy ngày đường… thời quốc vương trước, hằng năm thuyền đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc, khí cụ của các thuyền hư tấp vào”.
 
3. Năm 1701, đoàn giáo sĩ thừa sai sang Trung Hoa đã kể lại trong Các bức thư nêu gương sáng và giải tỏa tò mò (Lettres edifiantes et curieuses) như sau: “Với luồng gió tốt, chúng tôi xuống tàu và chẳng bảo lâu đã tới phía trên đảo Paracel. Paracel là một quần đảo thuộc đế quốc An Nam). Đó là những tảng đá rất đáng sợ rộng hơn 100 hải lý, một cơn gió lớn làm đắm tàu bất kỳ lúc nào”.
 
Quần đảo Paracel nằm dài gần bờ biển nước Cochinchine (Giao Chỉ gần Trung Hoa), xưa gọi là nước An Nam. Tàu Amphitrite lần đầu đi Trung Hoa tưởng là sẽ bị tử nạn nơi đây. Thủy thủ đoàn tưởng rằng chưa đến nỗi khi họ thấy con tàu chúi mũi vào một bãi biển chỉ có bốn hay năm sải nước mà thôi. Trong cơn nguy kịch đó họ nguyện cầu nếu qua khỏi họ sẽ xây dựng một giáo đường trên mộ thánh Phanxicô Xavie tại đảo Sancian (Tam Sơn). Họ được chấp nhận lời nguyền và thoát khỏi cơn nguy kịch như một phép lạ. Để kỷ niệm sự cố này, các nhà địa lý và hàng hải lấy tên tàu Amphitrite làm địa danh cho các đảo ở phía đông bắc Hoàng Sa mà ta gọi là nhóm đảo Tuyên Đức.
 
4. Năm 1833, Giám mục Taberd cho ra sách với nhan đề: Vũ trụ, lịch sử và mô tả hết mọi dân tộc, cùng tôn giáo, phong tục tập quán. Trong đó có đoạn mô tả rõ địa lý quần đảo Hoàng Sa: “Chúng tôi không đi sâu kể hết các hải đảo chính thuộc chủ quyền nước Giao Chỉ gần Trung Hoa (Cochinchine, quốc hiệu chính thức khi ấy đã là Việt Nam). Chúng tôi chỉ xin lưu ý rằng từ 34 năm trước đây, quần đảo Paracels gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa.
 
Bản đồ Vương quốc An Nam của Alexandre de Rhodes lần đầu tiên chú thích rõ ràng biển, đảo của Việt Nam bằng chữ quốc ngữ.
 
Một khu vực rắc rối như mê hồn trận gồm nhiều đảo nhỏ và các bãi cát làm cho các nhà hàng hải sợ hãi đã do người Việt Nam chiếm giữ. Chúng tôi đã không biết họ thiết lập một cơ sở nào chưa, song chắc chắn rằng hoàng đế Gia Long đã quan tâm kết hợp thêm một cánh hoa nhỏ ấy vào vương miện của mình, vì ông xét là thích hợp nên đích thân ra đảo thực hiện chủ quyền năm 1816 và trân trọng trưng quốc kỳ Việt Nam”.
 
Năm 1838, Giám mục Taberd xuất bản tại Serampore (Ấn Độ) bộ từ điển đồ sộ Nam Việt Dương hiệp Tự vị (Dictionarium Anamitico Latinum). Trong đó có tấm bản đồ Việt Nam cỡ lớn (40 x 80 cm) ghi tên ba thứ tiếng Việt - Hán - Latin: An Nam Đại quốc họa đồ. Bên tay phải bản đồ, phía trên vĩ tuyến 16, Taberd ghi rõ: Paracel seu Cát Vàng (đảo Paracel hay Cát Vàng).
 
Taberd viết chữ quốc ngữ và âm tiếng ta chứ không gọi Paracel là Hoàng Sa. Điều này càng khẳng định quần đảo Hoàng Sa và cả quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, vì xưa kia địa danh Paracel chỉ cả khối các đảo nhỏ và bãi cát suốt từ Bắc xuống Nam, mà Đại Nam Thống Nhất Toàn Đồ (thời Minh Mạng) gọi phần Bắc là Hoàng Sa và phần Nam là Vạn Lý Trường Sa.
* * *
Như vậy các nhà tu hành Tây phương cũng như Trung Quốc rất khách quan, thấy sao nói vậy: Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam!
 

Bản đồ cổ, chứng cứ quý giá để bảo vệ chủ quyền
Mới đây, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Cliton phát biểu: Các nước tranh chấp về chủ quyền trên biển Đông cần giải thích tuyên bố chủ quyền theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, đồng thời chứng minh các tuyên bố chủ quyền bằng chứng cứ pháp lý. Và gần như đó cũng là quan điểm chung của các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Tân Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng đã nói rõ: “Cơ sở lịch sử, pháp lý và quyền chiếm hữu khai thác, sử dụng về mặt thực tế là ba mặt của vấn đề để xác lập chủ quyền biển, đảo”.
Rõ ràng, chứng cứ lịch sử, pháp lý là những cột trụ quan trọng để chứng minh cho các tuyên bố chủ quyền của Việt Nam trước quốc tế và là cơ sở chứng lý hết sức quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp có liên quan đến biển Đông (trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa).
Đối chiếu vấn đề này với những cống hiến của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, ta mới thấy hết được giá trị to lớn rút ra từ những bản đồ cổ. Trong năm năm qua, ông đã tập trung những ngày tháng còn lại của đời mình để nghiên cứu rất sâu về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam qua hệ thống bản đồ cổ. Những tư liệu quý báu mà ông thu thập được trong suốt cả cuộc đời mình đã không phụ lòng người săn sóc chúng. Đối chiếu cả trăm bản đồ cổ của Việt Nam, Trung Quốc và nhất là hàng trăm bản đồ cổ do những nhà hàng hải phương Tây đương thời vẽ xuyên suốt từ thế kỷ XVI đến sau này, ông rút ra kết luận: “Chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa đã được thế giới khẳng định qua các đồ bản suốt từ 500 năm qua”.
Có thể nói kết luận rút ra từ chứng cứ bản đồ mà nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu thực hiện là những chứng cứ giá trị để Việt Nam đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Ông nói: “Muốn bảo vệ chủ quyền quốc gia của mình, đầu tiên phải biết ta có chứng cứ gì đã, thứ hai chứng cứ đó có chắc không. Từ đó mà truyền bá kiến thức ấy thật sâu rộng đến tất cả đồng bào của mình, dư luận thế giới để tạo thành một sự nhận thức rõ ràng, thống nhất về chủ quyền quốc gia của ta. Nghĩa là biến kiến thức ấy thành sự đoàn kết, thành quyết tâm của toàn dân tộc, thành thứ vũ khí sắc bén nhất để bảo vệ chủ quyền!”.
MINH CƯỜNG
 
 
Các bản đồ cổ Tây phương đều xác nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.

Bài 2: Chủ quyền qua bản đồ cổ Tây phương
 
Với phương tiện cá nhân hạn chế, tôi chỉ có thể sưu tầm hoặc tiếp cận được khoảng trên 100 bản đồ cổ của các tác giả thuộc nhiều quốc gia Tây phương thực hiện mà nội dung có phần diễn tả lãnh thổ và lãnh hải nước ta xưa. Đó là các tấm bản đồ rời và đa phần in trong các sách chuyên khoa địa lý cổ. Tôi phỏng đoán thực tế có hàng ngàn bản đồ cổ có nội dung tương tự chứ không phải ít. Tiếc rằng chúng ta chưa có điều kiện thu gom hoặc sao chép để làm tài liệu.
 
 
Đất nước ta hiện hình trên các bản đồ Tây phương mới từ đầu thế kỷ XVI, tức cùng thời với châu Mỹ - tân thế giới.
Hầu hết các bản đồ cổ do người Tây phương vẽ từ thế kỷ XVI đều ghi quần đảo Paracel (gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa) tương ứng với vị trí của Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa trên Đại Nam nhất thống toàn đồ. Quần đảo ấy ở giữa biển Đông và bờ biển Paracel (costa da Paracel) luôn được ghi ở khoảng đất liền Quảng Ngãi (vòng tròn đỏ).
 
Tóme Pires viết sách Suma Oriental cho biết năm 1523 mới khám phá ra bờ biển nước Giao Chỉ. Năm 1525, Diogo Ribiero vẽ bản đồ nước ta với biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa (Pracel rồi Paracel) (1). Các nhà hàng hải Bồ Đào Nha dùng người Mã Lai làm hướng đạo và thông ngôn khi đi tìm đường từ eo biển Malacca tới Trung Quốc qua Việt Nam. Do đó địa danh của ta được ghi lệch lạc bằng cả hai thứ tiếng Mã Lai và Bồ Đào Nha. Thí dụ Cù Lao Chàm thì ghi là Pulo Compello, Giao Chỉ thì ghi là Co Chi rồi tùy theo mỗi thứ tiếng mà ghi khác đi như Cau Chy, Ca Chi, Cochin, vv… Thấy bên Ấn Độ có thị trấn cùng tên Cochin nên họ bèn ghi đây là Cochin gần China, tức Cochinchina.
 
Diogo Ribeiro, năm 1529.
 
Livro da Marinharia, năm 1560
 
Lưu trữ ở La Haye, Hà Lan, 1658
 
Địa danh Cochinchina chỉ toàn quốc Đại Việt trên các bản đồ cổ từ đầu đến cuối thế kỷ XVI. Từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX, địa danh này chỉ Đàng Trong còn Đàng Ngoài thì được chỉ bằng địa danh Tumkin, Tonkin… (Đông Kinh). Dưới thời Pháp thuộc Cochinchine chỉ Nam Kỳ, Annam chỉ Trung Kỳ và Tonkin chỉ Bắc Kỳ. Ngày nay, ít còn ai quan tâm đến nguyên thủy của địa danh Cochinchine. Thậm chí có sách khảo cứu còn cho địa danh này là từ Cô Sinh hay Cô Chín xinh mà ra!
 
Trên các bản đồ cổ Tây phương, địa danh Cochinchine được ghi vào phần lãnh địa thay đổi về hành chính từng giai đoạn lịch sử như vừa trình bày. Điều đáng lưu ý là phần lãnh hải thì không có gì thay đổi: quần đảo Paracel (gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa) vẫn ở giữa biển Đông và bờ biển Paracel (costa da Paracel) luôn được ghi ở khoảng đất liền Quảng Ngãi. Giữa quần đảo và bờ biển Paracel, nhiều bản đồ ghi là vịnh hay biển Cochinchine (tức thuộc Giao Chỉ). Đến thế kỷ XIX mới có những bản đồ bỏ tên biển Cochichine và ghi tắt là biển Chine (Mer de Chine, China sea). Không ngờ đến nay, sự ghi nhầm này sinh ra tác hại lớn.
 
Tôi tin tưởng rằng với tinh thần ca dao truyền thống “thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”, dân tộc ta sẽ vượt qua mọi trở ngại để giữ vững chủ quyền trên “rừng vàng biển bạc” của Tổ quốc.
 

Tìm “hình hài” đất nước qua bản đồ
Một lần tôi hỏi nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu: “Vì sao bác mê bản đồ đến như thế?”, ông trả lời vui rằng: “Tôi mong được đi du lịch khắp Tổ quốc mình nhưng vì nhiều điều kiện khác nhau không thể đi hết chiều dài lịch sử, cũng như không thể đi hết mọi nơi. Vì thế tôi đành đi du lịch bằng bản đồ vậy”.
Trong suốt 60 năm qua, từ khi là một trí thức trẻ cho đến giờ đã là một lão nhân ngoài 90, mái tóc bạc trắng chỉ còn phất phơ mấy sợi, ông chưa bao giờ ngừng nghỉ khám phá “hình hài” của đất nước. Ông đi khắp những tiệm sách cũ ở Sài Gòn, các kho lưu trữ, những thư viện trong nước, quốc tế, nhiều khi chỉ là những tập sách báo mà người ta bỏ quên ở góc chợ… để tìm kiếm những lưu dấu của Tổ quốc qua các thời đại. Ai muốn biết Việt Nam từ lúc sơ khai nhất trên bản đồ thế giới như thế nào? Việt Nam đi qua bao biến thiên của lịch sử ra sao? Từng thước đất, biên cương hải đảo của Tổ quốc ta tới đâu? Căn nhà nhỏ với hàng ngàn tấm bản đồ của ông sẽ trả lời cho bạn điều ấy.
Ông tâm sự: “Ngôn ngữ của nét vẽ luôn thách thức và thu hút tôi. Tôi luôn có cảm giác đằng sau những nét chi chít kia còn ẩn giấu nhiều giá trị chưa khám phá”. Có bản đồ đến cả chục năm trời mới “cắt nghĩa” được nhưng ông chưa bao giờ bỏ cuộc, như trường hợp so sánh Hồng Đức bản đồ với bản đồ của Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes). Ông bật niềm vui sướng khi thú vị phát hiện: Đắc Lộ bắt chước cách vẽ của bản đồ Hồng Đức. Nhưng đây cũng là bản đồ đầu tiên chú thích các địa danh Việt Nam bằng chữ quốc ngữ phiên âm Latin (thay vì Hán tự như bản đồ đương thời của nước ta), trong đó có ghi rõ những vùng biển, đảo thuộc Việt Nam (Cù Lao Ré - đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi ngày nay và xa ngoài khơi là đảo Pulo Sisi ở đúng địa điểm Hoàng Sa…).
Ông đã miệt mài kiếm tìm, góp nhặt từng nét giá trị từ các bản đồ để tạo nên cả một kho tàng lịch sử - văn hóa - chủ quyền quốc gia của Việt Nam ở ngay tại nhà mình - nơi ông đã dành tặng gần cả đời cho lịch sử nước nhà.
MINH CƯỜNG